Xe bồn chứa LNG > Bể chứa > Van xả khí > Lò sưởi nhiệt-> Thiết bị điều chỉnh áp suất
1. Quá trình dỡ hàng
Bể chứa xe bồn được điều áp thông qua bộ tăng áp không tải. Khi áp suất của bể chứa xe bồn lớn hơn áp suất của bể chứa chất lỏng đầu vào 0.2Mpa, chênh lệch áp suất được sử dụng để vận chuyển LNG đến bể chứa qua đường ống.
Khi chất lỏng được thải ra, tái chế NG nhiệt độ thấp trong bể thông qua đường ống BOG.
Hình ảnh
2.Quy trình kiểm soát áp suất bể chứa
LNG trong bể chứa được dẫn động bằng áp suất tới thiết bị khí hóa ở nhiệt độ không khí, thiết bị này được cung cấp cho người sử dụng sau khi khí hóa. Khi LNG thoát ra khỏi bể, áp suất sẽ liên tục giảm và tốc độ sẽ giảm dần cho đến khi dừng lại.
Vì vậy, trong quá trình hoạt động bình thường, cần liên tục bổ sung khí vào bình chứa và duy trì áp suất trong bình trong một phạm vi nhất định để đảm bảo xả chất lỏng liên tục.
Việc điều chỉnh áp bể chứa được thực hiện bằng van điều chỉnh tăng áp tự hành và bộ khí hóa nhiệt độ không khí. Khi áp suất trong bể thấp hơn giá trị cài đặt mở của van tăng áp tự hành thì van tăng áp tự hành được mở và LNG chảy vào nhiệt độ không khí. Bộ khí hóa được chuyển vào bể sau khi trao đổi nhiệt độ không khí, để đạt được áp suất của bể chứa.
Áp suất làm việc bình thường của bể chứa được giới hạn và kiểm soát bởi giá trị áp suất không đổi của van đẩy tăng áp bằng dây. Áp suất làm việc cho phép của bồn được cài đặt và điều khiển tự động bằng van tự động tắt trước cửa xả khí của bồn.
Trong quá trình sử dụng bình thường của bồn chứa tank thấp hơn áp suất mở của van tăng áp, van tăng áp hoạt động để điều áp ổn định. Khi áp suất phun cực đại của bể chứa đạt đến giá trị mở van giảm áp đã cài đặt thì máy ép van sẽ tự động mở và điều chỉnh áp suất để bảo vệ an toàn cho bể chứa.
Trong suốt quá trình của giai đoạn này, LNG sẽ ảnh hướng lớn đến môi trường của kho lưu trữ, làm tăng dần áp suất của kho lưu trữ và cuối cùng gây nguy hiểm cho sự an toàn của bể chứa. Vì vậy, trong điều kiện bình thường, bể chứa sẽ được thiết kế van an toàn, van giảm áp tự hành, van thông hơi, thông qua bảo vệ an toàn ba cấp độ đảm bảo vận hành an toàn của bể chứa.
Hình ảnh
3. Quy trình kiểm soát mức chất lỏng của bể
Mức chất lỏng của bể chứa LNG được kiểm soát bởi lượng nạp. Bể được trang bị hai hệ thống đo mức độc lập, cổng đo đầy đủ và đồng hồ đo mức áp suất chênh lệch chỉ để báo và đo mức bể.
Ngoài ra còn được trang bị báo động mức cao, van ngắt khẩn cấp, báo động mức thấp. Mức chất lỏng lưu trữ phải được kiểm soát trong khoảng từ 20% - 90%.
Hình ảnh
4. Quy trình kiểm soát quá áp LNG
Là hỗn hợp của nhiều thành phần khác nhau, LNG sẽ phân tầng trong quá trình bảo quản và gây ra hiện tượng xáo trộn, dẫn đến một lượng lớn LNG sẽ bay hơi và quá áp trong bể chứa. Nếu không thể giảm áp kịp thời, sự an toàn của bể chứa sẽ bị đe dọa nghiêm trọng.
+ Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự sụt giảm do sự phân tầng LNG gây ra do các nguyên nhân sau:
· Do mật độ LNG khác nhau
· Mật độ khác nhau do nhiệt độ khác nhau của LNG được nạp liên tiếp
· Mật độ của LNG khác do sự bay hơi của khí Metan thành phần nhẹ.
Hình ảnh
5. Các biện pháp thường được sử dụng để ngăn chặn sự phân tầng của LNG trong bể như sau:
· Lưu trữ LNG từ các nguồn gốc khác nhau một cách riêng biệt
· Để tránh chênh lệch lượng LNG được bơm vào bể, áp dụng các phương áp nạp sau: Khi LNG trong bể tương tự nhau, LNG nhẹ trong bể chứa được bơm vào đầu và phía dưới của bể chứa.
· Đường ống dẫn chất lỏng vào bể chứa sử dụng vòn hỗn hợp và ống xốp có thể trộn hoàn toàn LNG mới được nạp với LNG ban đầu
· Để bảo quản LNG lâu dài, phải đổ bể thường xuyên để tránh sự phân tầng do trạng thái tĩnh.
Hình ảnh
6. Quá trình xả chất lỏng
Bể chứa chất lỏng được điều áp bằng bộ tăng áp của bể chứa. Khi áp suất của bể chứa chất lỏng lớn hơn áp suất ra ngoài 0.2 Mpa, LNG được vận chuyển đến thiết bị khí hóa nhiệt độ không khí bằng đường ống nhờ chênh lệch áp suất
Hình ảnh
7. Tái chế BOG
Một phần LNG bay hơi thành khí do hấp thụ nhiệt hoặc thay đổi áp suất của khí BOG bao gồm:
· Bể chứa LNG hấp thụ khí bay hơi do nhiệt bên ngoài tạo ra
· Khí bay hơi sinh ra do thay đổi áp suât và thể tích pha khí trong bể chứa khi dỡ LNG.
· Khí bay hơi sinh ra khi LNG đi vào bể chứa tiếp xúc với LNG có nhiệt độ cao hơn trong bể chứa ban đầu
· Khí sinh ra trong quá trình giảm áp khi áp suất trong bể chứa cao.
· Xe bồn áp dụng phương pháp tái chế tự áp để tái chế BOG
Hình Ảnh
8. Quá trình giảm áp lực
Khi nhiệt độ thấp hơn khoảng -120°C, mật độ khí tự nhiên nặng hơn không khí. Sau khi bị rò rỉ, nó sẽ tích tụ trên mặt đất và không dễ bay hơi. Tuy nhiên, ở nhiệt độ bình thường, mật độ khí tự nhiên nhỏ hơn nhiều so với mật độ không khí, rất dễ lây lan. Theo đặc điểm của nó, việc phát thải an toàn phải được thực hiện theo yêu cầu tiêu chuẩn, thường sử dụng chế độ phát thải tâp trung.
Hệ thống xử lý xả an toàn bao gồm van an toàn, tấm nổ, lò sưởi EAG và tháp xả.
Nếu áp suất trong bể chứa hoặc đường ống tăng mạnh, khi vượt quá áp suất nhảy của van an toàn, van an toàn sẽ hoạt động, giải phóng khí quá áp, thông qua bộ nhiệt EAG, khí tự nhiên ở nhiệt độ thấp rỗng được làm nóng tâp trung và thải ra sau chống cháy, để bảo vệ bể chứa và đường ống.
9. Quy trình điều chỉnh áp suất đo lường và thêm mùi
Sau khi khí hóa, LNG đi vào phần đo điều chỉnh áp suất, đầu tiên được lọc bằng bộ lọc, sau đó điều chỉnh áp suất đến mức áp suất trung bình thông qua bộ điều chỉnh điện áp, được đo bằng lưu lượng kế tuabin và cuối cùng được khử mùi.
Thiết bị tạo mùi là thiết bị thích hợp gần trên đường trượt. Thêm chất tạo mùi theo tỷ lệ, theo tín hiệu dòng chảy, hoặc thêm chất tạo mùi theo liều lượng cố định. Dấu hiệu làm đầy là 20mg/Nm3. Cần phát hiện khi đạt đến 20% giới hạn nổ dưới. Mùi là tetrahydrothyphene và quá trình tạo mùi được cung cấp bởi bơm định lượng màng.
Hình ảnh 1:
Hình ảnh 2: